NHỮNG BÀI SONNÊ CÁI CHẾT
I
Trong bốn bức tường bê tông lạnh giá
Không phải cho anh, em sửa lại điều này:
Anh sẽ chờ gặp gỡ với em đây
Giữa ánh sáng, tiếng xạc xào hoa lá.
Em sẽ đặt anh vào chăn chiếu lạ
Anh của em, trong buốt giá đêm đen
Thành cát bụi, êm hơn cả nôi êm
Trong đất mẹ ngọt ngào anh hãy ngủ.
Em sẽ trộn vào đất phấn hoa hồng
Cho đến khi trăng trên trời còn thở
Anh sẽ không cần nỗi sợ, hờn ghen.
Em hạnh phúc, vô tội về với anh
Bởi từ nay địch tình không còn nữa
Chỉ còn đây cát bụi của riêng em!
II
Nhưng đến ngày với nỗi đau thân thể
Linh hồn anh thỏ thẻ bên tai em:
Đã chán chê những lối nhỏ màu hồng
Không còn đi theo những người vui vẻ.
Và ngục tối sẽ rung lên thật mạnh
Xẻng đào lên, đát sét vỡ tung ra
Hai chúng mình sẽ trò chuyện thoả thuê
Nói chán chê thâu đêm và suốt sáng.
Em sẽ cùng anh ngồi trong hoang vắng
Hiểu vì sao không đi hết đường mình
Anh đi vào cõi chết giữa ngày xanh
Và trở nên rõ ràng điều bí ẩn:
Rằng trời sinh em là để cho anh
Sao anh ra đi, chọn cái chết cho mình?
III
Giờ phút đau thương những bàn tay ác độc bắt anh
Để những vì sao trên trời cũng buồn đau đứng lặng
Anh ra đi, từ giã muôn đời bông huệ kia màu trắng
Tại vì sao cho bàn tay kia anh trao trái tim mình?
“Người yêu của con – em lạy Chúa lòng lành –
Chết trên con đường lỗi lầm. Người tiễn đưa không biết
Xin giành lấy cho con từ bàn tay oan nghiệt
Hoặc cho ngủ thật say rồi tính sổ với trần gian.
Không đáp lại một lời, con không giữ được anh
Ngọn gió đen đã mang con thuyền đi ra biển
Không trả thuyền về – giữ thuyền trong nước cóng”.
Bất lực chạy ra xa, chìm xuống con thuyền hồng
Chẳng lẽ thuyền không yêu, lòng thương thuyền nén nhịn
Ngày phán xét cuối cùng xin Ngài tha tội cho con!
Los sonetos de la muerte
I
Del nicho helado en que los hombres te pusieron,
te bajaré a la tierra humilde y soleada.
Que he de dormirme en ella los hombres no supieron,
y que hemos de soñar sobre la misma almohada.
Te acostaré en la tierra soleada con una
dulcedumbre de madre para el hijo dormido,
y la tierra ha de hacerse suavidades de cuna
al recibir tu cuerpo de niño dolorido.
Luego iré espolvoreando tierra y polvo de rosas,
y en la azulada y leve polvareda de luna,
los despojos livianos irán quedando presos.
Me alejaré cantando mis venganzas hermosas,
¡porque a ese hondor recóndito la mano de ninguna
bajará a disputarme tu puñado de huesos!
II
Este largo cansancio se hará mayor un día,
y el alma dirá al cuerpo que no quiere seguir
arrastrando su masa por la rosada vía,
por donde van los hombres, contentos de vivir...
Sentirás que a tu lado cavan briosamente,
que otra dormida llega a la quieta ciudad.
Esperaré que me hayan cubierto totalmente...
¡y después hablaremos por una eternidad!
Sólo entonces sabrás el por qué no madura,
para las hondas huesas tu carne todavía,
tuviste que bajar, sin fatiga, a dormir.
Se hará luz en la zona de los sinos, oscura;
sabrás que en nuestra alianza signo de astros había
y, roto el pacto enorme, tenías que morir...
III
Malas manos tomaron tu vida desde el día
en que, a una señal de astros, dejara su plantel
nevado de azucenas. En gozo florecía.
Malas manos entraron trágicamente en él...
Y yo dije al Señor: —«Por las sendas mortales
le llevan. ¡Sombra amada que no saben guiar!
¡Arráncalo, Señor, a esas manos fatales
o le hundes en el largo sueño que sabes dar!
»¡No le puedo gritar, no le puedo seguir!
Su barca empuja un negro viento de tempestad.
Retórnalo a mis brazos o le siegas en flor».
Se detuvo la barca rosa de su vivir...
¿Que no sé del amor, que no tuve piedad?
¡Tú que vas a juzgarme, lo comprendes, Señor!
CHỜ TRONG VÔ VỌNG
Em quên một điều, đã không còn nữa
Những bàn chân rất mau lẹ của anh
Và em bước ra như những ngày xanh
Trên con đường để cùng anh gặp gỡ.
Với bài hát em đi qua thung lũng
Nhưng tội nghiệp thay giọng hát của em
Còn buổi chiều đem chiếc cốc của mình
Lật úp ngược, còn anh thì không đến.
Và những tia mặt trời rắc lên
Rồi cháy đỏ bừng lên trong nắng
Trên cánh đồng sương còn dăng đường viền
Còn em đây chỉ một mình… đứng lặng.
Những cành cây gầy guộc héo hon
Vẫn rung động, bồn chồn trong ngọn gió
Khi đó em kêu lên trong nỗi sợ:
“Anh ở đâu, hãy đến với em!
Em yêu anh với một nỗi kinh hoàng
Anh ở đâu, với em hãy đến!”
Nhưng màn đêm chìm trong im lặng
Cơn mê sảng của em không thể ngăn kìm.
Em quên rằng anh đã chẳng còn nghe
Những lời em điên cuồng gào gọi
Em đã quên cái vẻ lặng câm kia
Và màu trắng nặng chìm như chì thỏi.
Đôi mắt em mở to lặng nhìn
Chỉ đôi mắt mà chẳng còn lời nói
Đôi bàn tay bất động của anh
Đến tay em không thể nào với nổi.
Đêm rót ra dải nhựa đen của mình
Như nước vũng. Trên đồng đang vỗ cánh
Và với giọng rì rào nghe khiếp đảm
Vang lên lời dự đoán của cú đêm.
Em từ nay sẽ chẳng còn gọi anh
Những năm tháng của mình, anh đã sống
Chỉ mình em vẫn dạo bước chân trần
Hãy yên nghỉ, quên những điều lo lắng.
Và sau này, trên con đường hoang vắng
Em lại vội vàng chạy đến gặp anh
Nhưng ảo ảnh xương thịt không trở thành
Trong vòng tay của em giang rộng.
LA ESPERA INÚTIL
Yo me olvidé que se hizo
ceniza tu pie ligero,
y, como en los buenos tiempos,
salí a encontrarte al sendero.
Pasé valle, llano y río
y el cantar se me hizo triste.
La tarde volcó su vaso
de luz ¡y tú no viniste!
El sol fue desmenuzando
su ardida y muerta amapola;
flecos de niebla temblaron
sobre el campo. ¡Estaba sola!
Al viento otoñal, de un árbol
crujió el blanqueado brazo.
Tuve miedo y te llamé:
"¡Amado, apresura el paso!
Tengo miedo y tengo amor,
¡amado, el paso apresura!"
Iba espesando la noche
y creciendo mi locura.
Me olvidé de que te hicieron
sordo para mi clamor;
me olvidé de tu silencio
y de tu cárdeno albor;
de tu inerte mano torpe
ya para buscar mi mano;
¡de tus ojos dilatados
del inquirir soberano!
La noche ensanchó su charco
de betún; el agorero
búho con la horrible seda
de su ala rasgó el sendero.
No te volveré a llamar,
que ya no haces tu jornada;
mi desnuda planta sigue,
la tuya está sosegada.
Vano es que acuda a la cita
por los caminos desiertos.
¡No ha de cuajar tu fantasma
entre mis brazos abiertos!
GẶP LẠI ANH
Không còn nữa bao giờ – không đêm vắng
Sao chập chờn, không giữa buổi bình minh
Không buổi chiều trong mệt mỏi cháy lên.
Không trên lối mòn, trên đồng, trong rừng nhỏ
Chẳng bên sông dòng nước lặng thì thầm
Và như mắt, ngời sáng giữa ánh trăng.
Không còn dưới mái tóc rừng buông xõa
Nơi em gọi anh, nơi em đợi, em chờ
Không ở trong hang, nơi tiếng vọng em nghe.
Không, dù không ở đâu nhưng còn gặp lại
Giữa sao trời, trong bão tố cuồng điên
Trong nước mắt đầy vơi, dưới mảnh trăng nguyền!
Và sẽ cùng nhau bốn mùa xuân hạ thu đông
Để những bàn tay sẽ dịu mềm hơn không khí
Quanh vòng cổ tím bầm đầy vết máu của anh!
Volverlo a ver
¿Y nunca, nunca más, ni en noches llenas
de temblor de astros, ni en las alboradas
vírgenes, ni en las tardes inmoladas?
¿Al margen de ningún sendero pálido,
que ciñe el campo, al margen de ninguna
fontana trémula, blanca de luna?
¿Bajo las trenzaduras de la selva,
donde llamándolo me ha anochecido,
ni en la gruta que vuelve mi alarido?
¡Oh, no! ¡Volverlo a ver, no importa dónde,
en remansos de cielo o en vórtice hervidor,
bajo unas lunas plácidas o en un cárdeno horror!
¡Y ser con él todas las primaveras
y los inviernos, en un angustiado
nudo, en torno a su cuello ensangrentado!
KHÔNG NGỦ
Em bắt gặp cái vòng hoa ngày ấy
Và run lên với nỗi sợ của mình
Em cứ ngỡ như khắp nơi giăng bẫy:
Anh chưa đi? Anh vẫn ở gần em?
Giá được vui, gặp lại niềm hạnh phúc
Và trả lời bằng ánh mắt vô tình
Nhưng trong mơ, em đã quen mất mát
Nhắc lại: anh chưa đi? anh vẫn ở gần em?
Desvelada
Como soy reina y fui mendiga, ahora
vivo en puro temblor de que me dejes,
y te pregunto, pálida, a cada hora:
«¿Estás conmigo aún? ¡Ay, no te alejes!»
Quisiera hacer las marchas sonriendo
y confiando ahora que has venido;
pero hasta en el dormir estoy temiendo
y pregunto entre sueños: «¿No te has ido?».
Gabriela Mistral
Nguyễn Viết Thắng dịch.
|