Do tính cách đọc thơ hoàn toàn chủ quan như đã nói ở trên, xin bạn đừng xem đây như một thiên khảo cứu hay một bộ sưu tập về thi ca Việt-nam. Tôi đọc bằng cảm xúc, không đọc bằng kiến thức. Nếu những lời bàn nào đó của tôi đối với một bài thơ mà không đúng ý tác giả thì chẳng có nghĩa rằng tôi hiểu sai đâu, mà chỉ vì tôi đọc thơ tác giả đó bằng cái hồn, cái giọng, cái cảm xúc của tôi đấy thôi. Xin đừng càm ràm, phiền trách. (Vả chăng, này các thi nhân, các bạn có thể nào chỉ tôi làm thơ cách sao mà không bị người khác hiểu sai ý không?) - Trích Lời thưa của Vĩnh Hảo viết cho các trang "Đọc thơ".
*
Thơ ông bài nào cũng dài. Có vẻ là những trường ca của một con người thao thức, băn khoăn, luôn tìm kiếm ý nghĩa của cuộc tồn sinh, lấy ngôn ngữ làm phương tiện đào xới, khai phá, những mong cảm thấu được gì trong cái mênh mang của đất trời.
Ðây là bài ngắn nhất trong số những bài thơ được phổ biến từ trước năm 1975:
Góa phụ
Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ,
Sao người khai giải chưa về thăm?
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chân
Em độc thoại lời kinh ánh xanh,
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn.
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.
Cỏ cây sống chết há ta thán
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
Thơ ông đầy triết lý. Không hiểu triết thì khó lòng cảm nhận được thơ ông. Giọng thơ mạnh mẽ mà đầy ẩn dụ, dẫn người đọc vào một thế giới thâm u, bí hiểm. Ðọc thơ ông phải nhạy bén bắt ngay được cái tứ, cái thâm nghĩa đàng sau những bóng hình, nếu không bắt được thì phải đọc đi đọc lại, mà đọc đi đọc lại thì e không thể trực tiếp bắt được cái thần nguyên thủy của thơ.
Nhưng đến bài sau này-có lẽ sáng tác sau khi ra tù- thì lời thơ, giọng thơ, bỗng trong sáng, quang đãng hơn, và cao đẹp một cách hùng tráng lạ thường. Một người bạn chép tặng tôi, chỉ ghi là của Tô Thùy Yên chứ không biết xuất xứ từ đâu. Chẳng rõ qua sự sao chép của một cá nhân như vậy có sai sót chỗ nào không. Ðây, bài thơ hiếm hoi của một Tô Thùy Yên ngày trở về:
Ta về
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế trời câm đất nín
Ðời im lìm đóng ván xanh xao
Mười năm thế giới già trông thấy
Ðất bạc màu đi đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy ghi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm cổ lục đã ai ghi?
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới uống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc trả ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển đời
Bé bỏng thì cũng sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Ðành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài cõi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuôc bể dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Ðời qua lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển đã chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta về như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Ðau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối khóc thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa
Ðêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khuya từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Ðâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Ðọc lại bài thơ thuở thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Ðành không trải hết được lòng ta.
Dàn trải lòng mình qua một bài thơ dài như thế mà vẫn cứ tiếc, cứ đau là đã không còn đủ thời gian để nói hết. Thực ra, ở đời có những người nói thật nhiều mà xem lại thì cũng chẳng nói được bao nhiêu. Ðâu bằng ông, từng câu thơ, từng đoạn thơ ngắn, đã sờ đến nỗi buồn đau vô lượng:
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can.
...
Ðau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối khóc thâu đêm
Và bốn câu thơ sau này, đã chạm đến cái vô hạn của từ tâm, cái mà con người và thế giới nhỏ nhoi hiện nay đã quên mất:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Lòng thương đã sánh với mênh mông của đất trời. Từ cái hữu hạn nhỏ bé của mỗi cá thể, không chỉ là cá thể con người, mà ngay cả cá thể một cánh hoa, thi nhân cũng đã cảm nhận được mối liên hệ bất phân giữa "ta" và "thế giới". Nỗi đau và niềm vui của con người được xác định qua liên hệ hỗ tương này. Khi từ tâm của mình mở ra vô hạn thì đồng lúc mình cũng cảm nhận được từ tâm vô lượng của tất cả "kẻ khác"; nhờ vậy mới thấy được rằng hoa đã nở vì mình (mà lâu nay do lòng vị kỷ, mình đã không hề biết).
Như vậy chẳng phải là quá đủ rồi sao! Dẫu tuổi đời có tăng gấp đôi, người ta cũng chỉ nói được đến thế là cùng.
Ðọc bài thơ này xong, tôi muốn nhắn nhủ đến Tô Thùy Yên rằng, ông đã trải hết được lòng ông rồi.
VH.
vinhhao.info
|