TIỄN BẠN Ở BẮC THÀNH, HẸN NHAU GẶP LẠI TẠI KINH ĐÔ
Hẹn nhau cùng đi thuyền,
Nay bác theo đường bộ,
Hành trình thiếu bầu bạn
Lênh đênh tôi một mình.
Thương mây treo đỉnh núi,
Biển buồn khi trăng lên,
Hẹn bác kinh thành đấy!
Ra bác cũng một mình!
TẠM BIỆT CHỊ
Chưa uống lòng đã say
Nâng ly bụng không đành
Sớm nay từ biệt chị
Ngày mai sẽ lâm hành
Hướng bấc gió mới nổi
Cuối thu trăng vừa sinh
Chỗ rẽ lòng đã dứt
Cần gì nghe vượng thanh
Bản dịch của Huỳnh Châu
Lời bình: Đây là bài thứ hai viết cho người chị. Bài Di tỷ khi lên đường đi du học ở kinh đô. Bài Biệt tỷ nầy có lẽ là khi đã thi đỗ, lên đường đi làm một chức quan nhỏ. Hình ảnh người chị chỉ thấp thoáng, nhưng thật sự tác giả lại toàn nói về người chị. Người phụ nữ Việt Nam đảm đang, quán xuyến cả trong hành vi xử thế của đàn ông. Bài nầy, chú ý các hình ảnh gió bấc se se, trăng còn non, hình ảnh của người mới bước vào đời. Cậu em tuy đỗ đạt, đi làm quan, người chị thấy em như con chim non mới ra ràng, mà trường đời thì đầy cạm bẫy. Người chị lo lắng dặn dò và người em cung kính hứa nghe lời. Tình chị em đằm thắm rất Việt Nam, nhưng chỉ thấy trong ca dao, mà rất hiếm trong thơ văn bác học.
GIẶT ÁO
Thu đến sầu quan ải,
Trống vắng phòng em đây,
Bần thần bên chày đá,(1)
Trăng xưa cũng hao gầy,
Tịch mịch sầu kéo sầu,
Tiếng chày vang nơi đâu,?
Nghe truyền ngoài hải thú,
Nam chinh lại dãi dầu.
XA NHÀ
Vui sum họp được mấy!
Xa nhau ngàn dặm trường.
Mưa dầm dề suốt tháng,
Thêm rầu khách tha hương.
Dệt mộng, không thành mộng
Thơ văn, thốt đoạn trường,
Xưa nay thân đất khách,
Anh em, đừng nhớ thương!
TRĂNG NON
Lấp ló bên gờ mây,
Mong manh ánh trăng gầy,
Núi sẫm màu tịch mịch,
Nội cỏ lạnh lùng thay!
Vụt đâu đây cánh nhạn,
Tí tách giọt sương đêm
Nhớ nơi nao buồn vậy?
Đêm thảng thốt một mình.
UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH
Rót rót thành một mình
Một mình tỉnh tỉnh say
Ngồi ngắm hoa thật thích,
Trăng tan lại u hoài,
Vui khi chơi đồ cổ,
Buồn lúc nhớ chuyện nay
Bên hoa thật thú vị
Nỗi lòng, ai có hay?
VỊNH HOA MẪU ĐƠN TRƯỚC THỀM
Giữa bao nhiêu hoa đẹp
Chăm chút riêng Mẫu Đơn?
Mẫu Đơn khoe phú quý
Chẳng hoa nào sang hơn.
Sắc đẹp tươi mái lá
Màu gấm rực cánh hoa
Rõ tình ta yêu quí
Mỉm cười cùng Mẫu Đơn
VỊNH HOA BỤT TRẮNG
Trong chòm xanh nền nã
Vươn lên rõ dáng thu
Đơn sơ và trang nhã
Chẳng chút phồn hoa nào.
Phải chăng khác cây cỏ,
Cũng buồn như khách sao?
Lòng ta u uất lắm
Nhìn hoa lòng nao nao.
TẾ THU VĂN MIẾU(1)
Đức giáo lưu thiên cổ
Tượng đài suốt xưa nay.(2)
Quan trường dường nguội lạnh
Miếu mạo càng thâm uyên
Thành tâm dâng cỗ cúng,
Kính cẩn lễ ơn thầy
Phò vua lo trị nước,
Lòng son, kẻ mọn nầy.
TIỄN CỬ NHÂN VŨ QUYỀN XỨ KINH BẮC ĐI LÀM TRI HUYỆN, NHÂN TIỆN GỞI LỜI THĂM ÔNG BẠN ĐỒNG NIÊN, HÀN LÂM VIỆN BIỆN TU NGUYỄN BÁ ĐỈNH.
Kinh Bắc, nhiều nhân kiệt,
Nhà bác lắm tuấn anh
Hàng cự tộc đương đại,
Hơn nửa chiếm khoa danh.
Lữ để, ta sơ ngộ,(1)
Ly đình, tôi tiễn hành.(2)
Chuyển lời thăm Bá Đỉnh
Tiền đồ được thông hanh.
TIỄN TRẦN BÁ LƯỢNG ĐI TÂN BÌNH
Nam Trung đâu tuyệt nhất?(1)
Tân Bình ai cũng khen,(2)
Sĩ phong đầy hào khí
Con em tài thơ văn.
Nay may gặp ngày đẹp,
Cảnh tượng khác xưa nhiều,
Chẳng phải tốn công kiếm,
Đến đấy có bạn hiền.
TIỄN CỐ NHÂN VỀ QUÊ
Vào thu cảnh buồn thật!
Nén lòng đưa tiễn đây
Nơi nầy dễ thương quá
Bên sông cây mọc đầy
Biển tiếp trời trải rộng
Cánh buồm như nhỏ đi
Ước gì mọc đôi cánh
Bay về quê tức thì.
TIỄN ÔNG KIỂM SỰ NGUYỄN TÌNH PHONG ĐI BẮC THÀNH
Văn chương khi mạnh thế,
Ơn tri ngộ dồi dào,
Các vọng thành sơ chí
Tương vọng tình biệt ca,
Đời mấy ai tri kỷ?
Năm hết lòng nao nao
Bác xem, người đông vậy,
Giống đạo xưa đâu nào?
GỞI TÌNH PHONG NGUYỄN PHƯƠNG BÁ Ở HÀ NỘI
Thu sang, tối nhanh lắm
Đeo lò hương một mình(1)
Học cách pha trà mới
Chơi vẽ tranh cúc xinh
Trước đèn, chuông ngân mãi
Bên hoa, trăng lặng thinh
Nhờ nhạn mang lời nhắn
Hồ Tây, có nhớ mình?
SÁNG SỚM LẠNH
Kinh đô sao cô độc!
Sớm lạnh, lúc đông về
Tiếng gió dập ngoài cổng
Mái nhà mưa lê thê.
Tựa gối thèm ngủ tiếp,
Dựa lan can âm thầm,
Hoa mai chưa kịp nở,
Cuốn rèm, lại trầm ngâm.
MÙA XUÂN Ở KINH ĐÔ, CÙNG TRƯƠNG QUÝNH XUYÊN, TRƯƠNG LY CHI
Đất Tràng An tháng chạp
Khoa Kỷ Mão, đồng niên(1)
Tuổi thanh xuân phơi phới
Thi hứng, tứ triền miên
Ngoài trời mưa nhè nhẹ
Cầu son, liễu xanh viền
Gọi trẻ châm thêm rượu
Vui say ngày Hạnh viên(2).
HỌA THƠ PHÚ BÌNH CÔNG
Túi càn khôn vô tận
Xưa nay biết hết đâu!
Tao nhã thể riêng biệt
Văn chương khác càng sâu
Ngàn năm qua, phải biết
Một chữ chớ coi thường.
Chuyện San Thi còn đó(1)
Nhẫn nại thấy mà thương
MỪNG THƯỢNG THỌ XUÂN CÔNG
Thủy chung, xin bội phục,
Nhân dịp đến thăm nhà
Vui vầy vườn bóng rợp
Rôm rả chuyện gần xa
Hoa bay đẹp như tuyết
Bên song, dáng ngọc ngà
Trời khuya, trăng sáng lắm
Thêm thích tiếng đàn ca.
HOA CÚC NỞ TRƯỚC SÂN
Trước sân vài buội cúc
Thu về trổ mấy hoa,
Chỉ vì lòng háo hức,
Nên thấy hoa muộn mà
Vốn là cây chịu lạnh
Sá gì gió mưa sa,
Mong bác hãy nhẫn nại,
Vững như tùng bách mà!
VUI XEM HOA NỞ
Cây cỏ sau bão dữ
Ba năm cảnh tiêu điều
Một sáng hoa rộ nở
Mọi chuyện khỏe đi nhiều.
Gió mưa công nhuần thấm
Tùng mai đẹp bao nhiêu
Ai cũng thương hoa nhỉ?
Cùng ta kết bạn hiền.
CHỜ BẠN
Hôm qua bác đã hứa
Sao giờ chưa tới chơi
Cầu kia trông vắng ngắt
Chim bay tận chân trời
Thờ ơ bên sách vở
Khép hờ cánh cổng thôi
Lờ lửng vầng trăng sáng
Thời gian đâu ngừng trôi.
ĐÊM NGỒI VỚI BẠN
Tôi vốn người cả nghĩ
Đâu ngờ bác quá lo
Phong trần bao nước mắt
Trăm năm một đời người
Trần thế nhiều mơ mộng
Tthi tài đến khổ thôi
Gặp nhau cần chi nói
Ngồi chơi là đủ rồi.
THANH NINH GIANG ĐẠO
Sáng sớm mưa lây rây
Hùng vĩ thế núi nầy
Hai bờ cao chót vót
Giữa dòng sông nước đầy
Đường đời chưa mấy bước
Dân phong còn lạ thay
Mừng tình hình yên ổn
Cùng ai công tác đây?
NHẬN MỆNH VUA ĐI KINH LƯỢC NAM KỲ
Kế hoạch vừa xác định
Chỉnh đốn vùng Nam Kỳ
Thuyền đồng cỡi đầu sóng
Tàng lọng vén mây đi
Hoàng thân làm thơ tiễn
Xuân sang chớ trù trì
Nhân dân, sau binh hỏa
Cần sớm được an vi
THUYỀN QUA QUÊ NHÀ QUẢNG NGÃI
Gió xuân, cánh chim biển
Thoáng chốc, vượt sóng trào
Thuyền nhắm hướng quê trẩy
Du tử lòng nôn nao.
Quê nhà thương biết mấy!
Xóm thôn giờ thế nào?
Đầu thuyền, xa chỉ thấy
Quê mình dưới tàng cao
THĂM CHÙA BỬU PHONG
Chùa núi Bửu Phong đẹp
Nhân vui ghélại thăm
Đất Phật vườn cảnh vắng
Rừng cây tỏa bóng râm
Vịn cấp lên cổ tháp
Nhìn sông xuôi âm thầm
Chan chứa tình lưu luyến
Xa xa kìa phố Nam.
ĐI KINH LƯỢC XỨ THANH
Trong Nam vừa về đến
Lệnh đi ngay xứ Thanh.
Sá gì chuyện sắp Tết,
Trời yên như thuận tình
Liên đêm thay ngựa trạm
Hoa bên đường tiếp nghinh
Thánh triều uy đức khắp
Không lâu sẽ yên bình.
GHI CHÉP TRÊN ĐƯỜNG ĐI QUA NGHỆ AN
Mới gặp một cô gái,
Ăn mặc sao lạ lùng
Tơ xanh thắt quanh bụng
Quần lửng sắc đen hung
Khó tả phần bên dưới
Lờ mờ lúc hoàng hôn
Nếu vẽ lông mày mỏng
Ai thèm Trác Văn Quân!
LẦN ĐẦU ĐẾN CHÂU LƯƠNG CHÁNH
Cứ ngỡ Bồng Lai đảo
Mà đây động sách dân(1)
Chót vót núi dựng đứng
Đường đi thiếu vết chân.
Cây to dư chỗ nghỉ
Ruộng phì đủ dưỡng thân
Tương lai mạnh tích tập
Vùng biên sẽ theo dần.
Ở LẠI ĂN TẾT Ở ĐỘNG KHƯƠNG CHÁNH, GỞI THƯ CHO PHÓ SỨ NGUYỄN TOẢN PHU
Chiến địa sang năm mới
Bụi vàng nhuộm hết râu
Cùng nhau lên xứ Thượng
Trưởng, phó gặp được đâu.
Đầy trời núi liền núi
Khắp đất vầu lại vầu(1)
Vỗ về dân là chính
Kế sách soạn đã lâu.
ĐI QUÂN THỨ ĐỘNG KHƯƠNG CHÁNH
Suốt đường, rừng heo hút
Bát ngát bầu không gian
Ba bề vây suối nước
Chập chùng núi giăng ngang
Cây tiếp trời xanh biếc
Mây điểm như thạch bàn
Đồn Ninh Lương mới lập
Là bia ghi khải hoàn.
GHÉ THUYỀN BẾN KIM SƠN
Ghé thuyền bên sườn dốc
Sông dài, cảnh đẹp thay!
Tiếng gió lùa khe núi
Trăng soi rộn ngàn cây
Thánh thót đồng hồ thúc (1)
Le re nước chảy đầy
Việc quân đang thúc dục
Tạm vui với cảnh nầy
TRỞ LẠI KIM SƠN
Danh thắng vùng châu Ái,(1)
Kim Sơn đẹp làm sao!
Thuyền men sát chân núi
Mặt nước người lao xao
Tựa cửa ngâm “Ỷ thạch”(2)
“Bá trạo” tiếng hò cao(3)
Say ngắm quên trời tối
Trăng lên tự khi nào.
VỀ ĐẾN TRẠM THỌ MAI, GỞI THƯ CHO TOẢN PHU
Đến Thọ Mai rồi đấy
Lương Chánh bóng mờ xa
Cố nhân còn truy địch
Chốn núi rừng xông pha
Một màu cây cỏ lạnh
Nợ nước với tình nhà
Bao giờ tan bóng giặc
Khải hoàn rộn tiếng ca.
THÀNH NHÀ HỒ
Đi săn, theo vết thú
Lần tìm bên sườn non
Gặp thành to bằng đá
Thành nhà Hồ trống không.
Quả thật hao dân lực
Đâu phải của thần công!
Bảo làm theo Kinh Dịch
Để mang tiếng gian hùng.
MẮT THẤY
Chẳng phải giả sang quí
Kiều diễm khi còn thơ
Môi son tươi trái chín
Mi xanh mượt như mơ
Ăn mặc thật trang nhã
Khí sắc chút kiêu sa
Lời nào sau ánh mắt?
Tóc trái đào ngây thơ.
ĐÁP LỜI BẠN
Vưu vật truyền Kinh Bắc
Di trâm tưởng Hán Nam
Đăng Đồ đâu háo sắc
Tiểu Đổ chỉ bàn suông
Khi rầu ai tâm sự?
Niềm vui đâu được luôn
Cố nhân lời thăm hỏi
Xưa nay vẫn như thường.
ĐỀ TẶNG NGUYỄN THẬN TRAI TIÊN SINH ĐƯỢC VỀ HƯU
Cụ may được vua duyệt
Cho về sống thảnh thơi
Đừng lo công việc nữa
Nên lui gẫm chuyện đời
Mãi làm thầy hoàng tử
Con nhà thua thiệt thôi!
Vườn xưa trăng sáng lắm
Lòng tôi lại bồi hồi
NHÂN TẾT TRUNG THU GỞI ÔNG CHẾ PHỦ HỌ NGUYỄN- TỔNG ĐỐC SƠN HƯNG TUYÊN
Từ biệt chừng lâu lắm
Nay đà tết Trung Thu
Vùng ấy nhiều danh thắng
Biết bác vui nơi nào?
Treo đèn theo phong tục
Thưởng trăng trẻ nôn nao
Tiếc là mỹ nhân vắng
Cùng ai khúc Mạc sầu
NGẪU HỨNG
Gặp nhau chắc vui lắm
Xem ra vẫn khi nào
Cách bờ vang tiếng sóng
Hang sâu sắc trăng hao
Ruột sôi dường nước réo
Liếc mắt đẹp làm sao
Mây mù che kín hết
Nhớ bạn nói được nào
(còn tiếp)
Nguồn: Trương Đăng Quế - Cuộc đời và sự nghiệp. Nhóm biên soạn: NGUYỄN VĂN CHỪNG, DƯƠNG MINH CHÍNH, LÊ VĂN CÔNG, LÊ SƠN - NGUYỄN VĂN THANH. NXB Văn học. 1-2009.
|